Showing posts with label love. Show all posts
Showing posts with label love. Show all posts

Sunday, 8 June 2014

Mây bay qua

Sometimes all you need is a poem to soothe your tired soul.

Bạn có nghe, bạn có nghe chăng trong những lùm cây tiếng hát trẻ em,
những giọng ca vút lên trên cả những cây óng ánh bạc
mất hút trong đêm hôm sau, chầm chậm im tiếng
và hòa lẫn vào bầu trời bị bóng đêm xóa mất.
Những sợi mưa lóng lánh quyện vào cây cối
và lặng lẽ rì rào trong cỏ trắng,
bạn có nghe tiếng các em, có thấy tóc các em với những chiếc lược đỏ,
và lòng bàn tay mở ra, đưa về phía tán lá ấm?
"Mây bay qua, mây bay qua và tan biến."
Các em hát như thế và những cành cây đen thỏ thẻ,
những giọng hát bay hoảng sợ, giữa những thân
cây âm u về tới đêm hôm sau, không trở lại.
Những lá ấm bay về phía gió, túa ra
từ những bụi cây, chạy trốn mất, như một tiếng gọi cất lên từ mùa thu xa xôi.
"Mây bay qua..." ban đêm những trẻ em của đêm cất tiếng hát.
Từ cỏ lên tới ngọn thế gian chỉ còn là
tiếng đập, tiếng run rẩy của giọng hát.
Khi mây bay qua, bay qua và mất hút đời sống.
Chúng ta mang trong mình cái chết của chúng ta, mây
chất đầy tiếng nói và tình yêu giữa những cành lá đen.
"Mây bay qua..." trẻ em hát ca ngợi thế gian.
Bạn có nghe, bạn có nghe chăng trong những lùm cây tiếng hát trẻ em?
Những sợi mưa lóng lánh sáng quyện vào nhau, những giọng nói vang dội,
giọng nói phù du cạnh những ngọn núi hẹp nơi bóng đêm
mới mẻ tràn ngập những bầu trời hấp hối.
Mây bay qua phía trên những lùm cây, mây bay qua.
Đâu đây suối nước chạy trốn, chỉ cần hát và chỉ cần khóc
dọc theo những vòng rào mùa thu, chỉ cần lúc nào cũng nhìn lên cao hơn, nức nở không thôi,
chỉ cần là một trẻ em của đêm,
chỉ cần lúc nào cũng nhìn lên cao hơn, chỉ cần hát và chỉ cần khóc,
chỉ cần không biết đến những giọt nước mắt,
Đâu đây suối nước chạy trốn dọc theo những vòng rào mùa thu và cây cối âm u,
tiếng thét trong bóng đêm mới mẻ, chỉ cần hát và chỉ cần khóc
chỉ cần gập lại tán lá của mình.
Phía trên chúng ta, một cái bóng lướt qua và tan biến,
chỉ cần hát và chỉ cần khóc, chỉ cần sống.
(Trích Tĩnh vật- Brodsky, Hoàng Ngọc Biên dịch)

Saturday, 1 March 2014

Để gió cuốn đi

Có một thời gian, tôi thực tập tại một trung tâm giúp đỡ cộng đồng. Mỗi buổi chiều, từ 3 đến 6 giờ, chúng tôi đón các cháu học sinh khuyết tật từ các trường về trung tâm và tổ chức các câu lạc bộ thể thao, phim ảnh, âm nhạc và nấu ăn... Các cháu ở đây chủ yếu mắc các hội chứng như tự kỷ, down syndrome và chậm phát triển.

Có một câu chuyện xảy ra mà đến giờ tôi vẫn còn nhớ mãi.

Đó là một buổi chiều mùa hạ. Lúc đó đã là 6 giờ (ở đây đến khoảng 8 rưỡi mới tắt mặt trời), tôi cùng các bạn đồng nghiệp đã bắt đầu thu dọn đồ đạc chuẩn bị ra về. Chỉ còn duy nhất một cậu bé đang chơi ngoài sân chờ mẹ đến đón.

Cậu bé mà tôi vừa nhắc đến là W, 13 tuổi, chậm phát triển ngôn ngữ và rối loạn cảm giác rất nặng. W ít khi tham gia vào các hoạt động nhóm, hoặc nếu có, cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn. Sau rất nhiều nỗ lực, chúng tôi thỉnh thoảng lôi kéo được W vào một số trò chơi như thử tập trượt xe scooter, lần khác khuyết khích cậu chơi bóng ném, hoặc có hôm nào đột nhiên hứng khởi thì cậu tự nguyện tham gia vào nhóm nấu ăn. W thích nhìn các hàng cây đung đưa trong gió và lắng nghe tiếng chim hót buổi chiều. Chỉ những lúc đó trông cậu thật vui vẻ, mắt sáng lên và mỉm cười, rồi có khi bất ngờ W nói "gió thổi" và "chim hót".

Chiều hôm ấy, khi thu dọn xong đồ đạc trong phòng chiếu phim, tôi nhìn ra thì chợt thấy W đang chơi bóng vui vẻ ngoài góc sân cùng một cậu bé cũng khoảng tầm trạc tuổi cậu. Cậu bé kia cúi xuống, làm một động tác như đánh lừa, rồi đột nhiên ném bóng về một hướng khác. W hơi ngỡ ngàng mất một chút, nhưng rồi nhanh chóng chớp được bóng. Và cứ thế, hai cậu bé chuyền bóng qua lại, cười giòn giã. Tôi không tin nổi vào mắt mình. Tôi gọi các đồng nghiệp ra xem. Bọn tôi đứng sững mất vài phút. Cảnh tượng trước mắt như một cuốn phim. Nhóm trưởng của tôi, người đã làm việc 3 năm nay với W, nghẹn ngào thốt lên "Lạy chúa tôi". Và cứ thế chúng tôi đứng yên quan sát. Với một đứa trẻ bình thường, việc chơi bóng cùng với một người bạn không có gì là ngạc nhiên. Nhưng với những đứa trẻ khuyết tật, đặc biệt một cậu bé tự kỷ nặng như W thì đó có thể xem là một điều kì diệu. W chơi với bạn khoảng 10 phút, vui vẻ và hào hứng, và cậu chỉ đột ngột dừng lại khi thấy mẹ và em gái đi từ ngoài cổng vào. Mẹ cậu, khi chứng kiến những giây phút ấy cũng xúc động không kém.

Khi tôi ra sân, cậu bé đã đi sang một góc khác và đang chơi cùng một em nhỏ và một người phụ nữ trung tuổi. Tôi chào cậu và cảm ơn vì cậu đã chơi với W. Cậu bé, một cách chững chạc, đi về phía chúng tôi, giới thiệu tên tuổi, cậu bảo cậu là N, cậu sống ở một vùng ngoại ô cách đây khoảng 150km, cậu lên đây chơi với em họ và bà ngoại. Nhà em họ cậu ngay cạnh trung tâm này và đó là lí do cậu vào đây chơi hôm nay.

Tôi nói với cậu rằng chúng tôi đã cố gắng rất nhiều lần nhưng ko ai có thể lôi kéo được W vào trò chơi lâu đến vậy một cách tự nguyện và vui vẻ. N bảo có thể W thích cậu vì cậu trạc tầm tuổi với W chăng. "Tôi đang tìm bạn để chơi thì tôi thấy W đứng một mình và thế là tôi rủ cậu ấy chơi. Cậu ấy bắt bóng rất cừ. Chúng tôi chơi thật vui", N nói đầy hào hứng.

Nghe đến đấy, tự dưng tôi ứa nước mắt. Tôi nhớ đến cảm giác khi xem bộ phim "Ngày thứ 8". Trong phim, Harry, một người đàn ông thành đạt và giàu có nhưng đổ vỡ trong cuộc sống gia đình đã vô tình gặp và làm bạn với George, một thanh niên mắc hội chứng down. Một câu chuyện hài hước và cảm động khi hai con người, hai thế giới hoàn toàn khác nhau, đã giúp đỡ và bổ sung cho nhau những phần thiếu hụt. Chính George đã mang lại cho Harry những nụ cười tươi tắn và yêu đời, giúp người đàn ông đau khổ tìm lại những giá trị đích thực của cuộc sống.

Tôi cứ đứng đó, không ngăn được hàng nước mắt chảy dài. Cô bạn đồng nghiệp đưa cho tôi một chiếc khăn giấy và nắm lấy tay tôi thật chặt. Mẹ W cũng ứa nước mắt. Bà bảo 13 năm nay bà đã cố gắng thật nhiều nhưng thật khó để tìm cho W một người bạn thực sự. W có nhiều người quen nhưng không mấy ai chơi được với W như thế. Với một đứa trẻ ở tuổi ấy, một người bạn có lẽ gần như là điều cần hơn hết thảy.

Trước khi ra về, tôi và cô bạn đồng nghiệp còn quay lại nói chuyện với N một lần nữa. Lần này tôi mới để ý kỹ hơn, cậu bé có khuôn mặt sáng, giọng nói trong, phong cách nói chuyện lịch sự và giản dị. Cậu có vẻ chững chạc hơn những cậu bé cùng tuổi. Bà của N, một người phụ nữ trung niên ăn vận nền nã, nói chuyện cũng rất hồn hậu. Tôi không kịp hỏi han nhiều về cậu bé, nhưng tôi tin rằng N đã được sinh ra và lớn lên trong một môi trường thật nhân văn. Không hiểu sao tôi cứ hình dung cậu sống trong một ngôi nhà ấm áp, gần gũi với tự nhiên và bố mẹ cậu hẳn là những người thật nhân hậu và yêu đời.

Đã nhiều lần tôi tham gia các công tác từ thiện, cả ở Việt Nam lẫn ở Úc và tôi đã thấy có nhiều cách để người ta trao tặng, ban phát vật chất hay tình cảm cho người khác. Trước kia, trong một số lần tham gia các buổi từ thiện, tôi sợ nhất là những bài diễn văn xúc động dài lê thê. Dù ở tư cách người cho hay người nhận, tôi thấy đều có chút cảm giác gì đó không thoải mái. Đặc biệt là từ phía người nhận, hình như họ có chút mặc cảm bởi bên cạnh món quà đôi khi còn kèm theo chút thương hại (điều mà ai ở trong bất kì cảnh ngộ bất hạnh nào cũng không mong muốn được/ bị nhận). Ở Úc, thường thì các buổi quyên góp gũy từ thiện được tổ chức dưới nhiều hình thức, chủ yếu là như hội hè, một buổi bán hàng ở các trung tâm thương mại hay hội chợ, hay dạ hội trivia night với các trò chơi hấp dẫn... mọi người đến đó, chỉ nghe một lời tuyên bố ngắn gọn rằng toàn bộ số tiền đêm nay góp được sẽ gửi cho đối tượng nào, và sau đó tham gia tiệc tùng, trò chơi... Rất nhẹ nhàng, vui vẻ mà hiệu quả. Tôi đã từng tham gia một vài đêm hội gây quỹ như thế, một đêm tiệc vui vẻ, từ các trò chơi gom từng đồng xu lẻ đến trò đấu giá đắt tiền, tất tần tật cũng đủ tài trợ cho một ngôi trường khuyết tật trong vòng khoảng một học kì. Và mới đây nhất, trong đêm hội dành cho người khuyết tật vào tháng 12 vừa rồi, tôi đã chứng kiến cả một hội trường rộn rã tiếng cười. Trên sâu khấu, từ trẻ đến già, mọi người cùng nhau nhảy múa theo những điệu nhạc sôi động, phía dưới hội trường bố mẹ, bạn bè, thầy cô và tất cả những người tham dự cũng lắc lư hò hét cổ vũ hết mình. Một đêm hội thật đúng nghĩa. Nó không dàn cảnh hoàn hảo, không tuyên ngôn lê thê, chỉ hát, và múa, và nhảy, và vui. Dù cuộc đời còn nhiều chông gai trước mắt, trong đêm hội ấy, họ được sống một cảm giác thực sự vui vẻ NHƯ NHỮNG NGƯỜI BÌNH THƯỜNG. BẢN THÂN KHUYẾT TẬT HAY LÀ CHA MẸ CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT, tất cả những điều đó không thể nào cản trở họ trở thành những người sống hạnh phúc và ý nghĩa. Họ cần sự quan tâm, sự chia sẻ đúng lúc và đúng mức hơn là một thái độ ban ơn hay thương hại từ cộng đồng. Và ranh giới đó, đôi lúc, thật mong manh làm sao! Càng ngẫm tôi càng hiểu vì sao người nhóm trưởng của tôi đã từng nói rằng bao nhiêu năm làm việc trong lĩnh vực này, cô sợ những người "over sympathetic" (thương cảm thái quá) hơn là những người "emotionless" (vô cảm).

Trở lại câu chuyện về những cậu bé, tôi nghĩ có thể điều làm cho W cảm thấy thoải mái và hứng khởi chơi bóng đấy chính là do cái cách mà N đã khởi động tình bạn với cậu. N đã không nhìn W như một đứa trẻ khuyết tật mà là một người bạn. Và có phải sự bình đẳng, tôn trọng ấy đã khuyến khích W vào một cuộc chơi vui vẻ, có phải một đứa trẻ khuyết tật cần được cảm thông và thấu hiểu về những khó khăn, nhưng bên cạnh đó cũng cần được đối xử một cách bình thường như MỘT CON NGƯỜI?

Và với N, tôi sẽ vẫn còn nhớ mãi nụ cười trong sáng của em. Em đã làm một việc tốt mà không nghĩ rằng mình đang làm việc tốt, em đã sống tốt một cách thật tự nhiên như hít thở khí trời. Em đã không nghĩ rằng mình ban phát niềm vui cho người khác mà nghĩ rằng mình đã tìm kiếm được niềm vui từ họ. Tôi đã được nghe kể những câu chuyện về những người giàu có khi mất đi để lại toàn bộ gia sản cho các tổ chức từ thiện và tôi vô cùng khâm phục họ. Nhưng tôi còn xúc động hơn khi có những con người sống giản dị, yêu thương chan hòa với những người xung quanh. Và tôi vẫn tin trong cuộc đời này còn rất nhiều người như vậy. Họ có thể, là một người lặng lẽ dắt một người già qua đường, là một người mua cái bánh mỳ nóng cho một người vô gia cư trong đêm, hoặc cũng có thể, là một người bạn đang nói chuyện với một người bạn, lắng nghe, thấu hiểu và không bao giờ phán xét.

Wednesday, 7 November 2012

"Once met, forever loved"

"Once met, forever loved", đó là dòng chữ tôi đọc được trên tấm bia được chôn trước một cây bạch đàn xanh tốt ở trong Centenial Park, một trong những công viên rộng và đẹp nhất Sydney. Trên tấm bia đó có kèm chú thích tên cây, tên người trồng, năm và cuối cùng là tên người được tưởng nhớ. Qua lại đã lâu trong công viên nhưng tôi cũng ít để ý, cho đến một ngày, một người bạn thắc mắc với tôi về những dòng chữ trên đó. Thường thì những tấm bia ấy ghi "tưởng nhớ", "yêu thương" hay "kỉ niệm" đến bố mẹ, vợ chồng, người tình, bạn bè, hoặc cũng có khi là thầy giáo, đồng nghiệp... đã mất, hoặc để chào đón những đứa trẻ vừa mới được sinh ra (thường thì trong trường hợp sinh đôi hay sinh ba). Một vài lần, bạn tôi thấy người ta mang hoa ra đặt trước tấm bia, sùi sụt khóc, lần khác, tôi lại thấy có người đến dọn dẹp gốc cây rồi ngồi lặng hàng tiếng đồng hồ.

Những lần sau đó, tôi bắt đầu khám phá từng gốc cây một, đọc tên từng cây, tuổi đời và tên của người đã khuất cũng như những người đã, đang tưởng nhớ đến họ. Nói đã/ đang bởi có những cái tên, tôi thấy họ ở gốc cây già, với tư cách người trồng, ở một cây khác, mới hơn, lại với tư cách là người được nhớ đến. Nghĩa là, cũng chính người này, khi sống, đã trồng cây để tưởng nhớ về một ai đó thân yêu đã mất, và đến lượt, khi người ấy mất đi, họ lại được những người khác nhớ đến, như một vòng tuần hoàn, cho và nhận, vay và trả, như kiếp người hạn hữu và yêu thương còn mãi. Những cái tên, hoàn toàn xa lạ với tôi, nhưng lại làm dấy lên trong tôi một nỗi niềm thật khó tả.

Rồi một hôm đi dạo trong công viên, tôi bắt gặp một đôi vợ chồng già đang cho chim ăn và đếm số lượng chim cò trong khu vực đó. Tôi đánh bạo hỏi chuyện về những cái cây và những tấm bia. Hai ông bà già giải thích rằng việc trồng cây trong công viên được hội đồng thành phố quản lý, nếu ai có nhu cầu trồng cây để tưởng nhớ đến những người thân đã mất, hoặc để chào đón, kỉ niệm cho những đứa con thân yêu vừa ra đời thì phải đăng ký và trả một khoản lệ phí nào đấy cho việc trồng và chăm sóc cây. Phí ấy, dĩ nhiên, không hề rẻ. Ông bà ấy bảo, có một gia đình thuộc hàng giàu có ở Sydney là có nhiều cây nhất ở trong khu vực công viên này. Rồi bảo thêm, nếu một trong hai người, ông hoặc bà, mất trước thì người kia nhất định cũng sẽ trồng một cái cây, giống như cây này này, bà chỉ cho tôi một cây bạch đàn cách đó chừng 50m, ngay cạnh bên hồ. Nói xong, ông bà già nhìn nhau cười tình tứ. Họ nói về cái chết nhẹ nhàng như vậy. Rồi sau đó, ông bà hỏi về phong tục của đất nước tôi và nói về phong tục của những vùng đất mà họ đã đến. Đột nhiên, bà già quay sang tôi hỏi: "cô có biết loại cỏ này không?" bà cúi xuống, lấy tay áp vào những khóm cỏ vừa mọc, loại cỏ này rất cứng, rất nhám, "cô tháo giày ra và thử giẫm lên xem". Tôi làm theo lời bà, quả là như có gai đâm. Bà bảo: "đôi giày này bảo vệ cô khỏi đám cỏ gai, đôi chân cô được bao bọc trong một thế giới êm ái, nhưng đôi khi, cũng nên tháo giày và chạy một vòng để cảm nhận xem gai sắc đến chừng nào. Giờ là mùa xuân, mùa xuân không chỉ có hoa, mà còn là mùa của loại cỏ gai này (bà nói một cái tên gì đó mà tôi không tài nào nhớ nổi). Hạnh phúc hay bất hạnh, êm ái hay đau đớn, sự sống hay cái chết, tất cả chúng ta đều phải, và sẽ đón nhận nó, lần lượt". Ông già quanh sang vợ gật đầu và mỉm cười. Tôi cũng mỉm cười theo. Nói xong, ông bà già chào tôi và sang mé hồ bên kia để tiếp tục công việc. Tôi sững mất vài phút và rồi rảo bước đi về, lòng vẫn còn ngơ ngẩn. Mấy tuần sau đó, hầu như hôm nào tôi cũng chạy bộ quanh công viên, cũng thường khoảng tầm giờ đó, nhưng thật tiếc tôi chưa có dịp gặp lại họ thêm một lần nào nữa.

Từ nhà tôi đến công viên có một con đường khá đẹp. Hai bên đường rất nhiều hoa. Độ mới sang xuân, hầu như ngày nào tôi cũng thường chạy bộ qua đường đó, đôi khi, tiện thể chụp mấy kiểu ảnh lưu giữ những khoảnh khắc đẹp của mùa xuân. Đặc biệt, có một khu vườn nho nhỏ ngay trước một tòa nhà chung cư tôi rất thích và thường dừng lại lâu hơn để ngắm nghía. Một sáng, khi đang tha thẩn ở đó, tôi chợt nghe giọng nói vọng xuống từ một cửa sổ tầng trên. Một bà cụ tóc trắng phơ nhưng giọng nói nghe còn rất rõ. Bà chào tôi rồi kể rằng khu vườn ấy thuộc về một người vừa mới mất. Nhìn những cành đào hồng, đào trắng và cả một vườn hoa xuân đang nở rạo rực xung quanh, tự nhiên tôi không ngăn được giọt nước mắt ứa ra. Khi bà nói "a lady", tôi không biết người đàn bà, chủ nhân của vườn hoa đẹp ấy, bao nhiêu tuổi, bà đã sống một cuộc đời như thế nào và chết ra sao. Nhưng tôi cảm động. Một người vun trồng, chăm bẵm cho một vườn hoa đẹp đến như thế, tôi tin, hẳn người ấy phải có một tâm hồn rất đẹp. Rồi khoảng tầm hơn 1 tháng sau, khi một buổi sáng đi bộ qua khu nhà ấy, tôi gặp một bà già đang tưới hoa. Tôi chào và đứng lại hỏi chuyện. Bà già tỏ ra niềm nở (tôi nghĩ những người già xứ này thường rất sẵn lòng nói chuyện, có thể vì họ sống biệt lập và cô đơn chăng). Thoạt nhìn, tôi nhầm tưởng đây là người tôi đã gặp lần trước.
- Chào bà, chúc bà một ngày mới tốt lành! Vườn hoa đẹp quá!
- Chào cô, vườn hoa này là của một người đàn bà, sống cùng khu nhà này, vừa mất được 2 tháng.
- Xin lỗi, hình như tháng trước tôi có nói chuyện với bà, lúc đó tôi đang ngồi ngắm hoa, và bà nhìn ra từ cửa sổ tầng 2
- Ồ không, đó là một người khác, hàng xóm của tôi. Chúng tôi sống cùng khu nhà này đã mười mấy năm rồi. Ở đây toàn người già, trạc tuổi nhau cả. Chắc cô nhầm vì... bà ấy cũng tóc trắng phau như thế này- bà nói và cười vui vẻ.
- Vâng, có lẽ thế, tôi không nhớ rõ.
- Cô thấy đấy, vườn hoa này rất đẹp. Bạn tôi, nguyên là người chủ vườn hoa này ấy, bà ấy yêu nó như con. Mấy tháng trước bà ấy ốm nặng phải vào viện, nhưng vừa được về hôm trước hôm sau đã lại ra vườn tưới hoa.
- Ôi, hoa đẹp thật đấy, rất đẹp - tôi nói, một cách bối rối, như mọi ngôn từ của tôi đột nhiên biến mất
- Đấy, bà ấy yêu vườn hoa này như vậy, nên khi bà ấy mất, chúng tôi thay nhau trông coi, chăm sóc nó hàng ngày
- vâng
- đó là thứ bà ấy để lại, cho mọi người - cuối cùng tôi cũng nghĩ ra được một câu gì đó để đáp lại
- đúng rồi, bà nói, bà ấy đã mất, nhưng vườn hoa thì vẫn còn
một khoảng lặng, rồi bà nói tiếp: 
- bà ấy trồng hoa cho niềm yêu thích của chính mình, nhưng vườn hoa mang lại vẻ đẹp cho cả khu nhà, và niềm vui cho mọi người. Nhờ thế, cô được ngắm, và tôi được nói chuyện với cô
- tôi thấy ở trong công viên người ta trồng rất nhiều cây để tưởng nhớ người đã mất đấy, công viên rất xanh- tôi chuyển chủ đề
- ừ, tôi biết, ở đây người ta thường làm vậy, đó là một cách để tưởng nhớ về người đã mất
- tôi rất thích ý tưởng này, nó rất nhân văn
- đúng rồi, nó gợi ý niệm về thời gian, về sự hiện hữu, một con người ra đi, nhưng cái cây sẽ lớn, nghĩa là ít nhất chúng ta vẫn còn hiện hữu trong một hình dáng khác, như cành như lá, và đặc biệt là trong tâm trí của một ai đó nữa. Và do vậy, chúng ta không hoàn toàn biến mất khỏi thế giới này
- tôi thấy xúc động, tôi nói, khi tôi đọc những tấm bia, dù tôi chẳng biết họ là ai
- đúng thế, cô không biết họ là ai, nhưng cô biết, có những người quan tâm đến những người đã mất, và đó là tình yêu, và đó là tình người - bà nhấn mạnh chữ "tình yêu" và "tình người".

Khi chào bà ra về, tôi cảm giác như chân mình bước liêu xiêu không trọng lượng. Tôi nghĩ ngợi mông lung về câu chuyện của những người đang sống và đã mất. Tôi nhớ ông nội, người gắn bó với những kí ức đẹp đẽ của tuổi thơ, ông đã mất 14 năm và lâu lâu tôi lại gặp ông trong những giấc mơ. Tôi nhớ đến người bạn thân học cùng cấp một đã từ giã cuộc đời khi đang ở tuổi đẹp nhất và số điện thoại của bạn vẫn nằm im ắng trong danh bạ từ bấy đến giờ. Ước gì tôi có thể trồng cho những người tôi yêu thương những cái cây xanh tốt như ở công viên kia. Và lan man nghĩ, giá như, thay vì đua nhau xây những khu lăng mộ thật to, thật hoành tráng, người ta có thể trồng cây, hoặc trong vườn, hoặc trên đường phố, trong công viên, thậm chí trong rừng, trên núi, bên bờ biển để tưởng nhớ về người đã khuất. Như thế, môi trường sống sẽ thêm được thật nhiều cây xanh. Rồi một lúc nào đó trong phút giây buồn bã, trong một nỗi nhớ quay quắt về một người đã khuất, người ta có thể đến đó, trước cái cây kỉ niệm, ngồi lặng im, với xung quanh là tiếng gió thổi vi vu, tiếng chim hót, tiếng bước chân những người chạy thể dục, và với tiếng chơi đùa con trẻ... chắc nó sẽ đỡ thê lương hơn cảnh tượng một buổi chiều rớt trong một khu nghĩa địa cô quạnh buồn tênh, tôi nghĩ.

Rồi từ câu chuyện về những cái cây, về vườn hoa, tôi bắt đầu nghĩ nhiều hơn về sự sống và cái chết, về chuyện "một cái chết như mong muốn" của một đời người, và cả chuyện sau cái chết. Trong chuyến đi chơi xa với một người bạn, tôi và cô ấy nói rất nhiều về lựa chọn chôn cất hay hỏa thiêu sau khi chết, và thế nào là một cái chết đẹp đẽ và ít đau đớn nhất, cho cả bản thân mình và những người ở lại. Trong 2 tiếng ngồi xe bus, và cả lúc leo núi, đi bộ dọc bờ biển, chúng tôi nói thật sôi nổi hào hứng, như thể ngày mai mình chết, mà cũng như thể, hàng trăm năm nữa mình mới ra đi. Bạn tôi nói cô ấy muốn được hỏa thiêu, rắc tro xuống biển hoặc ở bất kì đâu thì tùy. Tro ấy có bón cây được không, cô ấy hỏi nhưng tôi không chắc lắm. Và dĩ nhiên, cô ấy cũng muốn được một ai đấy trồng cho một cái cây, tôi cũng vậy. Dẫu biết rằng ma chay là một tục lệ lâu đời, rất khó thay đổi, tôi thực sự vẫn thấy rùng mình khi nghĩ đến cảnh những đám tang với nhiều thủ tục rườm rà cho cả người chết lẫn người sống, cảnh khóc lóc não nề, thậm chí kèn trống phô trương ồn ã... Đành rằng một người thân ra đi là tột cùng đau thương và mất mát, nhưng có thể nào người ta thể hiện niềm yêu thương và nỗi đau khổ một cách giản dị hơn được không?

"Once met, forever loved", dĩ nhiên tôi không còn đủ sến để tuyệt đối hóa về một tình yêu duy nhất trong đời. Tôi vốn tin rằng trái tim con người làm bằng da thịt, dòng máu chảy trong tim nóng ấm không bao giờ nên để héo mòn và hóa đá vì một mối tình tan, vì một người đã ra đi vĩnh viễn. Hình tượng nàng Tô Thị chờ chồng hóa đá hay những người đàn bà thủ tiết đến mỏi mòn trong thời chiến tranh mà một thời được xã hội tôn thờ xưng tụng, sao tôi thấy thật bất nhẫn và xót xa.

"Once met, forever loved", tôi thích dòng chữ ấy, theo nghĩa, tình yêu sẽ là mãi mãi, trong cả sự nhớ và sự quên, trong cả nỗi buồn và niềm vui của người ở lại. Đặc biệt, khi tình yêu đấy được gửi gắm, hiện hữu trong một hình hài cụ thể như một cái cây, nó sẽ lớn lên, sẽ tỏa bóng mát yêu thương cho tất cả mọi người. Rồi ngay cả khi, cái cây ấy chết đi thì những cái cây khác lại mọc lên, như sự yêu thương giữa con người- con người không bao giờ vơi cạn. Cũng như vườn hoa kia, một ngày nào đó sẽ tàn lụi, và cả những người muôn năm cũ trong khu phố ấy nữa, một ngày cũng sẽ giã từ cuộc đời này. Nhưng vòng tuần hoàn của sự sống thì sẽ còn mãi, những người mới, những cây mới, những cuộc đời mới. Và cứ thế.

Theo đó, những suy nghĩ lan man này rồi một ngày cũng sẽ biến mất. Nhưng rồi, liệu có bao nhiêu cái cây xanh tốt sẽ mọc lên?